Đại lý thuế – Công ty TNHH dịch vụ tư vấn A&T tổng hợp văn bản mới số 01, tháng 7 năm 2018, cụ thể như sau:
- Công văn số 2448/TCT-CS ngày 20/06/2018 lệ phí trước bạ đối với trường hợp đăng ký lại quyền sử dụng đất
Vì giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất số 1716/CNSH của Sở Xây dựng tỉnh Gia Lai-kon Tum cấp cho ông Mai Xuân Cúc chỉ công nhận quyền sở hữu nhà ở và ghi nhận hiện trạng khuôn viên khu đất gắn liền với nhà ở, không phải là giấy công nhận quyền sử dụng đất nên khi cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải tính tiền lệ phí trước bạ đối với quyền sử dụng đất. Do đó, Tổng cục Thuế nhất trí với ý kiến đề xuất của Cục Thuế tỉnh Kon Tum tại công văn số 08/CT-THNVDT ngày 4/01/2018 theo quan điểm 1, cụ thể như sau: trường hợp của Mai Xuân Cúc khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng để chuyển đổi, tặng cho thì phải nộp lệ phí trước bạ đối với diện tích đất 397,75m2 và phần diện tích tăng thêm 25,95m2 đất sản xuất nông nghiệp.
- Công văn số 2451/TCT-CS ngày 20/06/2018 về sử dụng hóa đơn điện tử
Trường hợp doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro cao về thuế thì doanh nghiệp mua hóa đơn của cơ quan thuế hoặc sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế.
Hiện nay, Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) đang xây dựng dự thảo Nghị định về hóa đơn, chứng từ điện tử thay thế và xây dựng hệ thống hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế theo Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 06/06/2017 của Chính phủ. Do vậy, đề nghị Cục Thuế thành phố Hà Nội hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế mua hóa đơn trong thời gian 12 tháng. Hết thời gian 12 tháng, căn cứ tình hình sử dụng hóa đơn, việc kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp và đề nghị của doanh nghiệp, trong thời hạn 02 ngày làm việc, cơ quan thuế có văn bản thông báo doanh nghiệp chuyển sang tự tạo hóa đơn để sử dụng (tự tạo hóa đơn theo hình thức tự in, đặt in, hoặc hóa đơn điện tử theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/03/2011 của Bộ Tài chính) hoặc tiếp tục mua hóa đơn của cơ quan thuế nếu không đáp ứng điều kiện.
- Công văn số 2474/TCT-KK ngày 21/06/2018 về Hệ thống nộp báo cáo thuế qua mạng giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp không đồng bộ
Trường hợp người nộp thuế gửi hồ sơ khai thuế điện tử đúng và đủ, hệ thống quản lý thuế của cơ quan thuế sẽ tự động tiếp nhận và chấp nhận hồ sơ khai thuế của người nộp thuế và không báo lỗi. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, đúng quy định, hệ thống quản lý thuế tự động trả thông báo không chấp nhận hồ sơ khai thuế điện tử và nêu rõ lý do để người nộp thuế thực hiện điều chỉnh hồ sơ khai thuế.
Trường hợp người nộp thuế gặp lỗi trong quá trình sử dụng (ví dụ: doanh nghiệp nộp báo cáo thành công nhưng cơ quan thuế báo lỗi), đề nghị liên hệ với các kênh hỗ trợ của Tổng cục thuế (đã được thông báo trên Cổng thông tin điện tử) hoặc Cơ quan thuế quản lý trực tiếp để được hỗ trợ xử lý.
Riêng về thuế TNCN:
Theo hướng dẫn tại điều 5 Thông tư số 110/2015/TT-BTC nêu trên, điều kiện để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế là cá nhân phải có chữ ký điện tử hoặc mã xác thực giao dịch điện tử. Tuy nhiên, trên hệ thống nhận tờ khai của Cơ quan thuế là các trang webhttp://nhantokhai.gdt.gov.vn và http://thuedientu.gdt.gov.vn còn nhiều đối tượng là cá nhân trực tiếp quyết toán thuế TNCN chưa có chữ ký điện tử hoặc mã xác thực để đảm bảo thực hiện giao dịch nộp hồ sơ quyết toán điện tử, do vậy các cá nhân này vẫn phải nộp hồ sơ giấy.
Tại điều 7 của Thông tư 110/2015/TT-BTC ngày 28/07/2015 hướng dẫn với chứng từ điện tử:
“2. Trường hợp hồ sơ thuế điện tử có các tài liệu kèm theo ở dạng chứng từ giấy phải được chuyển đổi sang dạng điện tử theo quy định tại Luật Giao dịch điện tử và được gửi đến cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế “
Với hồ sơ quyết toán thuế TNCN không chỉ có tờ khai quyết toán thuế mà còn bao gồm các hồ sơ, giấy tờ kèm theo. Hiện tại hệ thống CNTT chưa đáp ứng được toàn bộ các hồ sơ kèm theo được chuyển sang dạng điện tử.
Trong thời gian tới Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng việc thực hiện nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN bằng hình thức điện tử tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế.
- Công văn số 2496/TCT-CS ngày 22/6/2018 về việc hoàn thuế giá trị gia tăng của Công ty Cổ phần Hải Việt
UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có công văn số 912/UBND-VP chấp thuận việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải của Công ty Cổ phần Hải Việt và Giao Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, UBND thành phố Vũng Tàu có trách nhiệm hướng dẫn Công ty thực hiện các quy định pháp luật về đất đai, xây dựng, môi trường. Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện xây dựng hệ thống xử lý nước thải cho đến nay, Công ty Cổ phần Hải Việt không có Giấy phép xây dựng, không có Giấy chứng nhận đăng ký quyền sử dụng đất, không có Hợp đồng thuê đất. Do đó, đề nghị Cục Thuế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu báo cáo UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc Công ty Cổ phần Hải Việt chưa thực hiện các quy định pháp luật về đất đai, xây dựng, môi trường đối với công trình xây dựng hệ thống xử lý nước thải nêu trên. Trên cơ sở ý kiến của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Cục Thuế tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xử lý việc hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của Công ty cổ phần Hải Việt theo đúng quy định của pháp luật và theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12/8/2016 của Bộ Tài chính.
- Công văn số 2498/TCT-CS ngày 22/6/2018 về việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với dự án đầu tư
Dự án đầu tư được hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định là dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Cục Thuế thành phố Hà Nội đề nghị Công ty cổ phần Vinatex Quốc tế xin ý kiến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại Đà Nẵng về việc Công ty cổ phần Vinatex Quốc tế ký hợp đồng thuê lại nhà xưởng, vật kiến trúc trên đất tại Khu công nghiệp Hòa Khánh với Công ty TNHH MTV Dệt 8/3 để thực hiện dự án đầu tư nêu trên đã phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai để hoàn thiện hồ sơ thủ tục pháp luật về đầu tư và xây dựng hay chưa? Trên cơ sở ý kiến của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại Đà Nẵng, Cục Thuế thành phố Hà Nội xử lý việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với dự án đầu tư của Công ty cổ phần Vinatex Quốc tế theo đúng quy định của pháp luật và theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12/8/2016 của Bộ Tài chính .
- Công văn số 2545/TCT-KK ngày 25/06/2018 với việc kê khai các khoản chi phí dự án và chi phí hoạt động kinh doanh riêng biệt
Trường hợp Công ty TNHH Cadana Việt Nam là doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư có thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư nếu đáp ứng điều kiện theo hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12/08/2016 và các điều kiện về khấu trừ thuế thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
– Về hồ sơ kê khai thuế giá trị gia tăng, Bộ Tài chính đã hướng dẫn tại Điều 11 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, cụ thể:
+ Thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế giá trị gia tăng (không sử dụng cho dự án đầu tư) kê khai tờ khai mẫu số 01/GTGT.
+ Thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu tư kê khai tờ khai mẫu số 02/GTGT.
- Công văn số 2602/TCT-KK ngày 29/06/2018 khôi phục MST của DN sau khi đã ban hành QĐ giải thể
Trường hợp Công ty (MST: 0102641161) đã có Quyết định giải thể số 01/2018/QĐ ngày 9/01/2018 và đã gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan thuế để giải thể doanh nghiệp nhưng chưa gửi hồ sơ đến cơ quan đăng ký kinh doanh là vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp. Đề nghị doanh nghiệp gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định, Công ty không được khôi phục mã số thuế sau khi cơ quan thuế đã đóng MST về trạng thái 03 “NNT ngừng hoạt động và đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực MST”.
Trường hợp, doanh nghiệp có phát sinh thanh lý tài sản cần có hóa đơn để giao cho người mua sau khi cơ quan thuế đóng MST về trạng thái 03 “NNT ngừng hoạt động và đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực MST ‘ thì Công ty gửi hồ sơ cấp hóa đơn lẻ đến cơ quan thuế quản lý để được cấp hóa đơn bán hàng theo quy định.
- Công văn số 2616/TCT-DNL ngày 03/07/2018 về chính sách thuế TNDN
VPBank có cung cấp dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng thông qua tổ chức chuyển tiền quốc tế Western Union, VPBank chịu sự kiểm soát và chi phối hoàn toàn của Western Union về biểu phí dịch vụ chuyển tiền, về chương trình đào tạo nhân viên, vẽ mẫu biểu cần thiết, thực hiện chương trình quảng cáo theo chỉ đạo cũng như cung cấp thiết bị và phần mềm cài đặt và đặc biệt Western Union được quyền xem xét, sao chép và kiểm toán sổ sách cũng như hồ sơ dịch vụ chuyển tiền. Vì vậy, Western Union được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Theo đó, Western Union không thuộc đối tượng được miễn thuế TNDN theo Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Pháp về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập tài sản.
- Công văn số 2637/TCT-CS ngày 04/07/2018 về xác định chi phí được trừ khi tính thuế TNDN đối với chi phí thuê mặt bằng trong trường hợp căn nhà cho thuê đang thuộc diện tài sản đang tranh chấp
Tổng cục Thuế thống nhất với đề xuất của Cục Thuế tại công văn số 4013/CT-TTHT nêu trên, cụ thề: Trường hợp ông Đặng Hoàn Mỹ thuê mặt bằng để làm văn phòng Công ty mà mặt bằng này hiện đang là tài sản tranh chấp (đang được tòa thụ lý) thì khoản chi phí thuê nhà này không đủ điều kiện để ghi nhận là chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp./.
- Công văn số 2672/TCT-DNL ngày 05/07/2018 về thuế GTGT của Dự án lọc hóa dầu
Trường hợp Công ty TNHH Hóa Dầu Long Sơn được thành lập từ Dự án Tổ hợp hóa dầu miền Nam Việt Nam, nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, đã góp đủ vốn điều lệ theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và thực hiện đầy đủ các thủ tục và cam kết theo quy định của pháp luật đầu tư (như cam kết góp vốn theo thỏa thuận tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư khi có sự thay đổi tiến độ góp vốn đầu tư trong quá trình triển khai dự án) thì Công ty được xem xét hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC nếu đáp ứng đủ các điều kiện về hoàn thuế GTGT.
Trường hợp Công ty TNHH Hóa Dầu Long Sơn không đáp ứng đủ các điều kiện, thủ tục nêu trên hoặc chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư đối với cơ sở kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì không được xem xét hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC.
Trân trọng.